TỐ CHẤT VIỆT VÀ GIÁO DỤC VIỆT ĐANG Ở ĐÂU ?
15.11.2009 02:41
NĐ: Càng tự hào về tố chất Việt, chúng ta càng phải đặt câu hỏi, tại sao đất nước chúng ta vẫn thiếu nhân tài, dân ta vẫn nghèo, đất nước vẫn còn lạc hậu? Sẽ là quá đơn giản, vô trách nhiệm và ngụy biện nữa, nếu chúng ta cứ tìm cách đổ tội cho chiến tranh...
TỐ CHẤT VIỆT VÀ GIÁO DỤC VIỆT ĐANG Ở ĐÂU ?
Tác giả: Nguyễn Việt (CHLB Đức, 11/2009)
Càng tự hào về tố chất Việt, chúng ta càng phải đặt câu hỏi, tại sao đất nước chúng ta vẫn thiếu nhân tài, dân ta vẫn nghèo, đất nước vẫn còn lạc hậu? Sẽ là quá đơn giản, vô trách nhiệm và ngụy biện nữa, nếu chúng ta cứ tìm cách đổ tội cho chiến tranh
LTS:Dẫn thống kê của chính phủ Đức, tác giả Việt Nguyễn, người đang sống ở CHLB Đức cho biết, gần 60% học sinh Việt Nam ở Đức đạt trình độ "tinh hoa",hơn hẳn hai nhóm theo sau là Đức và Nga (trên 40%). Tác giả quả quyết, hiện tượng học sinh Việt ở Đức cũng chẳng khác gì hiện tượng tương tự ở Mỹ, ở Canada hay đâu đó có người Việt đặt chân tới. Ở đâu thì truyền thống hiếu học, cần cù của dân tộc ta cũng luôn được phát huy, từ thế hệ này qua thế hệ khác.Nhưng tại sao chúng ta vẫn thiếu nhân tài, dân ta vẫn nghèo, đất nước vẫn còn lạc hậu?Tuần Việt Nam giới thiệu bài viết 2 kỳ của ông như một tư liệu để mọi người cùng thảo luận.
Tố chất Việt Nam
Vừa qua, đài truyền hình ZDF của Đức có chương trình nói về vấn đề hội nhập của thanh niên có nguồn gốc nhập cư, một đề tài đang nóng lên sau khi liên minh trung tả CDU/CSU/FDP thắng cử tại cuộc bầu cử quốc hội cuối tháng 9 vừa qua. Điều làm tôi quan tâm đến là ZDF đã chứng minh trường hợp học sinh Việt Nam thành đạt tại Đức bằng biểu đồ so sánh tỷ lệ học sinh được vào trường Gymnasium (bên Anh gọi là Grammar shool, loại trường dành cho học sinh khá, giỏi có khả năng sau này vào đại học, bắt đầu từ lớp 5 đến lớp 12).
Học sinh các trường Gymnasium ở Đức còn được gọi là Elite-Schüler (học sinh tinh hoa). Theo biểu đồ này: tỷ lệ học sinh hết cấp 1 đuợc tuyển vào Gymnasium toàn quốc là 27%; tỷ lệ học sinh gốc Việt vào Gymnasium là 55%; tỷ lệ học sinh gốc Thổ Nhĩ Kỳ đạt trình độ đó là 11%.
Vì không tìm được biểu đồ này trên trang web của ZDF, nên tôi phải vào trang web báo Zeit (Thời đại) và tìm thấy bài viết tương tự về hiện tượng này (http://www.zeit.de/2009/05/B-Vietnamesen), trong đó có bảng thống kê chính thức, mới nhất của cục thống kê liên bang Đức.
Thống kê này cho thấy gần 60% học sinh Việt Nam ở Đức đạt trình độ "tinh hoa", hơn hẳn hai nhóm theo sau là Đức và Nga (trên 40%). Hiện tượng này làm cho nhiều chính khách Đức hết sức ngạc nhiên và họ đã không ngần ngại dùng nó để đả phá lại ý kiến của nhiều cộng đồng nhập cư khác (đặc biệt là các cộng đồng Thổ Nhĩ Kỳ, Ả-Rập). Các cộng đồng này cho là con cái họ ít thành đạt vì chính sách nhập cư yếu kém của chính phủ Đức.
Thành thực mà nói, là dân nhập cư, tôi luôn dạy các con tôi phải biết ơn chính phủ và nhân dân Đức đã tạo điều kiện giúp chúng tôi hội nhập vào một xã hội văn minh, dân chủ, bình đẳng. Họ bình đẳng đến mức mà trên căn cước và mọi giấy tờ của tôi, nơi sinh chỉ được phép ghi là Binh Dinh (Bình Định), hoặc trên giấy tờ của vợ tôi thì chỉ ghi là Son Tay (Sơn Tây), có nghĩa là mọi quan chức, từ cảnh sát đến phòng thuế, khi tiếp xúc chúng tôi, không được phép hỏi và biết là chúng tôi thuộc gốc dân nào. Do vậy ý kiến của một số đại diện cộng đồng kia chỉ có thể là ngụy biện và tỷ lệ rất cao học sinh Việt Nam lọt vào các trường tinh hoa của Đức đã làm cho họ lúng túng.
Hiện tượng học sinh Việt ở Đức cũng chẳng khác gì hiện tượng tương tự ở Mỹ, ở Canada hay đâu đó có người Việt đặt chân tới. Ở đâu thì truyền thống hiếu học, cần cù của dân tộc ta cũng luôn được phát huy, từ thế hệ này qua thế hệ khác. Bên cạnh đó, một điều không thể chối cãi được là tố chất thông minh của người Việt. Bởi vì chỉ hiếu học, cần cù sẽ không có những tên tuổi được thế giới công nhận như Nguyễn An (kiến trúc sư xây thành cổ Bắc Kinh và trị thủy sông Hoàng) hay Trương Trọng Thi (phát minh ra máy tính cá nhân) và thời hiện đại thì như Phan Đình Diệu (Lý thuyết automat).
Khi đi thăm Sillicon Valley ở San Jose, tôi đã gặp rất nhiều trí thức trẻ gốc Việt nắm các vị trí cao tại các tập đoàn điện tử viễn thông của Mỹ. Tất cả các cháu đều là thế hệ 2, thế hệ 3 của dòng người Việt tỵ nạn, sang đây từ những năm 70-80 thế kỷ trước. Quá nửa các cháu mà tôi gặp là con nhà nghèo, cha mẹ từng chỉ làm những công việc chân tay vất vả khi mới sang đây, luơng mỗi giờ vài USD, nhưng luôn động viên con cái học hành.
|
Philipp Roesler, bộ trưởng Y tế Đức. Ảnh: Reuters. |
Tất cả các cháu, dù xuất thân từ thành phần tướng tá chế độ cũ hay là con thợ may, con dân đánh cá, đều có cái nhìn rất tha thiết với tổ quốc của cha mẹ mình. Tuy đã là công dân Mỹ, nhưng khi gặp tôi, các cháu đều rất lễ phép, cố vượt khó để nói tiếng Việt và tỏ ra tự hào về nguồn gốc của mình, khiến tôi cũng tự hào lây.
Hiện tượng ông Philipp Roesler, một trí thức gốc Việt, từ Bộ truởng kinh tế bang Niedersachsen đuợc đề bạt lên làm Bộ trưởng Bộ Y tế chính phủ liên bang Đức ở tuổi 36 lại càng làm tăng vọt sự chú ý của dư luận Đức về cộng đồng nguời Việt và làm cho cộng đồng ta tại Đức rất tự hào. Tuy bản thân ông Roesler, sinh ra ở Khánh Hòa năm 1973, đuợc gia đình bố mẹ nuôi mang về Đức từ lúc 9 tháng tuổi, không hề chịu ảnh hưởng gì từ văn hóa Việt, nhưng trong các dịp tiếp xúc với cộng đồng, ông không bao giờ dấu giếm sự gắn bó huyết thống này.
Việt Nam có thể nghèo được không?
Càng tự hào về nguồn gốc, về tố chất Việt, chúng ta càng phải đặt câu hỏi, tại sao đất nước chúng ta vẫn thiếu nhân tài, dân ta vẫn nghèo, đất nước vẫn còn lạc hậu? Sẽ là quá đơn giản, vô trách nhiệm và ngụy biện nữa, nếu chúng ta cứ tìm cách đổ tội cho chiến tranh. Quê tôi ở Bình Định, nơi mà sư đoàn Bạch Hổ của Hàn Quốc đã đóng quân trong chiến tranh. Nhiều nguời lính Hàn khi đó sang Việt Nam đã chỉ mơ ước nuớc họ giầu có như Việt Nam ta vào những năm 60. Chỉ 30 năm sau cuộc chiến tranh Triều Tiên, năm 1982 Hàn Quốc đã trở thành một quốc gia công nghiệp với tổng thu nhập đầu người trên 11.000 USD (con số này hiện nay là 28.000 USD, trong khi năm 1965 nuớc bạn còn nghèo hơn ta).
Hãy nhìn sang dân tộc Do Thái. Họ xây dựng lại đất nước từ con số không, sau hàng ngàn năm mất nuớc, mất cả tiếng nói, mất cả chữ viết, bị tiêu diệt, bị đồng hóa gần như tiệt chủng. Năm 1948 một triệu người Do Thái sống sót từ các trại tập trung khắp châu Âu quay về xây dựng lại đất tổ Israel, giữa vòng vây trùng điệp của một trăm triệu nguời Ả Rập.
Vậy mà sau hơn 30 năm, nhà nuớc Israel đã trở thành một quốc gia kỹ nghệ cao, có bộ máy quân sự hùng mạnh nhất tại Trung Đông và có thể nói, ngày nay nguời Do Thái đã chuyển từ số phận kẻ bị đe dọa tuyệt chủng thành kẻ nắm sinh mệnh của dân tộc khác. Ở đây tôi không muốn bàn đến mặt trái "vô trách nhiệm" của nhà nuớc Israel trong vấn đề hòa bình với dân tộc láng giềng Palestine, mà chỉ muốn nhấn mạnh đến ý chí tự cường và sự thành công của một dân tộc bị bao vây đến mức đó. Hoàn cảnh quốc tế đối với nuớc ta suốt mấy chục năm qua thuận lợi hơn rất nhiều, đó là chưa kể các thuận lợi về nội lực.
Chắc chắn có nhiều bạn đọc không thích cái điệp khúc "đất nước ta rừng vàng biển bạc". Nhưng tôi đã đi nhiều nước và phải công nhận một điều rằng Việt Nam quả là một đất nuớc giàu có tài nguyên. Trong khi ở mọi nơi trên thế giới, nhân loại đang lo lắng về thiếu năng lượng, bất kể tạo ra từ khoáng sản hay từ nuớc, từ gió, từ nắng, thì nuớc ta thừa thãi các nguồn này.
Nước Đức trung bình có 1000 giờ nắng trong năm, chính phủ phải bù lỗ để dân chúng làm pin mặt trời trên mái nhà để bán lại cho mạng quốc gia. Ngược lại nước ta có hơn 2200 giờ nắng trong năm với cường độ bức xạ mặt trời cao hơn nhiều thì lại không làm đuợc việc đó. Trong khi hơn 2/3 nhân loại đang lo sợ về khan hiếm lương thực, về nguồn nuớc, về dự trữ dầu mỏ thì Việt Nam ta có đầy đủ mọi thứ.
|
Ảnh: VnEpress.net |
Các nước công nghiệp hóa đang lo ngại về nguồn nhân lực trong lúc chúng ta lại có thừa. Như vậy nếu đất nuớc chúng ta có thiếu thốn và nghèo đói, chẳng qua tại chúng ta chưa biết quản lý và khai thác.
Một đạo diễn điện ảnh người Đức, bạn tôi, đã từng lăn lộn bao năm trong chiến tranh để giúp ta, khi sang thăm Việt Nam có nói với tôi: "Đất nuớc cậu như vậy, làm cho nó nghèo đi còn khó hơn là giữ cho nó giầu có!". Câu nói đó tuy đầy vẻ hài huớc của một nghệ sỹ, nhưng rất đáng để chúng ta suy nghĩ.
Tất cả các cường quốc trỗi dậy sau chiến tranh như Đức, Nhật, Israel, Hàn Quốc đều không thể có những điều kiện thuận lợi mà trời phú cho dân tộc ta. Các nuớc Đức và Nhật hầu như không có tài nguyên gì đáng kể, Israel thì nằm lọt trong một vùng hoang mạc cằn cỗi. Hàn Quốc và Israel luôn ở trong tình trạng nửa chiến tranh và phải chi phí cho một ngân sách quốc phòng gấp nhiều lần nuớc ta. Thành công của các dân tộc này chính là nhờ yếu tố con nguời, và để phát huy được yếu tố này, họ đã coi con người là mục tiêu của công cuộc xây dựng đất nuớc.
Nguồn (tuanvietnam.net) >>>Tố chất Việt và giáo dục Việt đang ở đâu? (Phần 1) Mời quý vị xem tiếp phần 2 dưới đây:
Tố chất Việt và giáo dục Việt đang ở đâu ?
(Phần 2)
Tác giả: Nguyễn Việt (CHLB Đức, 11/2009)
Bài đã được xuất bản.: 1 giờ trước
Chính cách giáo dục nặng về "định hướng" này đã làm thui chột khả năng tự hình thành nhân cách của học sinh. Hậu quả là chúng ta có được một xã hội khá đồng nhất, nhưng ít có khác biệt về tư duy. Thiếu sự khác biệt ắt sẽ không có tinh hoa, và như một quy luật sinh học, xã hội sẽ rất khó phát triển
Định hướng và sự khác biệt
Hồ chủ tịch sinh thời đã nói: "Vì lợi ích muời năm phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm phải trồng người". Cụ Hồ đã luôn trăn trở để tìm ra một chiến lược về con người cho Việt Nam. Quá trình trồng người có thể đuợc hiểu là bao gồm ba bước: Tạo hạt giống, ương cây và trồng cây, hoặc có thể được hiểu là: Gia đình, nhà trường và xã hội.
Gia đình Việt truyền thống luôn coi việc học hành và thành đạt của con cái là ưu tiên số một. Niềm tự hào đầu tiên của đa số bố mẹ Việt không phải là địa vị và tài sản của mình, mà là thứ hạng của con cái trong lớp. Chính vì vậy hiện nay ở ta vẫn tồn tại hệ thống xếp hạng trong lớp mà nhiều nước đã bỏ. Câu đầu tiên mà cha mẹ gặp nhau là hỏi về việc học hành của con cái. Càng những vùng quê nghèo khó, sự hy sinh của cha mẹ cho con cái càng to lớn. Câu nói dân gian "hy sinh đời bố, củng cố đời con" xuất thân trong những hoàn cảnh đó.
Những hạt giống con người Việt Nam ra đời trong các gia đình như vậy, được ươm tại các mái trường và được trồng tại các mảnh vườn thích hợp đã cho ra những kết quả rực rỡ như chúng ta đã thấy tại Đức, Mỹ, Pháp v.v.
Do vậy, những khiếm khuyết trong hệ thống giáo dục nước nhà rõ ràng mang yếu tố trường học và xã hội hơn là do yếu tố gia đình. Việc các ông bố bà mẹ tìm mọi cách để bắt con cái đi học hết lớp nọ đến lớp kia, không phải là một cách hành xử sai mà chẳng qua chỉ là hậu quả của lối giáo dục "coi nhẹ giáo dục" và không vì người học, không hiệu quả và thiếu định hướng của nhà trường, và sâu xa, của ngành giáo dục hiện nay.
Coi nhẹ giáo dục:Tuy Bác Hồ đã suy nghĩ về một chiến lược con người như vậy, nhưng trải qua mọi thời kỳ, chúng ta thực sự coi nhẹ sự nghiệp giáo dục. Trong những năm chiến tranh và bao cấp hậu chiến, ngành giáo dục luôn là ngành thiệt thòi nhất. Chỉ những học sinh có vấn đề lý lịch hoặc học lực yếu mới đành chịu vào các trường sư phạm. Trong khi viên chức các cơ quan khác được chia nhà tập thể, đuợc đi tu nghiệp ở nuớc ngoài thì anh chị em giáo viên luôn là những người lương thấp khổ hạnh.
Một khi xã hội và nhà nước nhìn nhận sai như vậy về giáo dục thì chất lượng của nó đã bị suy giảm từ gốc, bất chấp biết bao lần cải cách giáo dục đã được tiến hành từ hơn ba chục năm qua. Ngày nay khi đã xóa bỏ bao cấp, chạy theo cơ chế thị trường thì chính nhà nước lại buông lỏng việc quản lý nhà trường- một cơ sở phúc lợi xã hội phi lợi nhuận. Do vậy nhà trường ngày nay bị cuốn hút vào cơn lốc kinh tế thị trường, các ban giám hiệu và các thầy cô đều phải chạy theo đồng tiền.
|
Định hướng duy nhất mà một nền giáo dục hiện đại phải hướng tới chính là: Phát triển khả năng tư duy tự do sáng tạo (Ảnh minh họa) |
Tình trạng dạy ngoài, dạy thêm, móc ngoặc, mua bán điểm, bằng cấp v.v đang làm xói mòn đạo đức của người thầy và điều nguy hiểm nhất là chúng đã làm hư hại tâm hồn trẻ em từ lúc mới buớc vào nhà truờng. Nhiều quan chức khi trả lời các bức xúc của nhân dân truớc thực trạng ngành giáo dục hiên nay chỉ thừa nhận khuyển điểm là chưa quan tâm đầy đủ đến quá trình suy thoái trong giáo dục, nhưng thực ra chưa có ai dám thừa nhận là đang vô trách nhiệm với tương lai của dân tộc.
Ít hiệu quả :Hàng năm, Việt Nam chỉ chi khoảng 3 % tổng sản phẩm quốc nội cho giáo dục, một con số không lớn và phần nào khẳng định rằng giáo dục chưa được quan tâm đúng mức ở nuớc ta. Nhưng con số đó chỉ là chi phí của nhà nuớc. Trong thực tế, do sự quan tâm đến học hành của gia đình Việt là rất cao nên hàng năm, các gia đình chi cho việc học hành của con cái một lượng kinh phí cũng có thể tương đuơng hoặc lớn hơn tổng chi phí của nhà nuớc bỏ ra. Đó là chưa kể đến sự hao phí về thời gian của cha mẹ, của học sinh cho việc đưa đón, đi học các loại truờng lớp bên ngoài, bên trong.
Trong xã hội công nghiệp hóa, thời gian còn đắt hơn tiền bạc. Như vậy thì có thể nói tổng chi phí toàn xã hội chi cho giáo dục có thể sẽ lên đến 6 hoặc 7% tổng sản phẩm quốc dân, xét về thứ hạng quốc tế, không còn là con số khiêm tốn nữa. Nhưng chính vì những lệch lạc trong hệ thống giáo dục trên đây mà chúng ta đã gây lãng phí rất lớn cho nguồn lực quốc gia.
Trẻ em chúng ta học mòn học mỏi, nhiều lúc không còn thời gian để chơi, để hưởng các sinh hoạt cần thiết nâng cao trí dục tuổi thơ. Ngoài các lớp học chính, lớp phụ đạo, trường ngoài giờ và cái máy tính, các cháu hầu như không còn thời gian để quan tâm đến các hoạt động xã hội, tiếp xúc với thiên nhiên và hậu quả là khi ra đời, khả năng thích nghi với cuộc sống sẽ bị hạn chế. Cha mẹ thì bỏ rất nhiều tiền của vào các lớp học, các loại phong bì, quà cáp, các buổi đưa đón con đi học ngoại khóa v.v. để rồi luôn lo sợ con mình sẽ không đỗ kỳ thi này hay đợt xét tuyển kia.
Thiếu định hướng: Nghe ra tưởng như nhận xét này mâu thuẫn với ngành giáo dục chuyên quan tâm đến định hướng ở Việt Nam. Nhưng trong khi chúng ta luôn đề ra các khẩu hiệu rất kêu: Đào tạo con người vừa hồng vừa chuyên, đào tạo con người gương mẫu, đào tạo con người XHCN, thì nhà trường Việt Nam bỏ qua mục tiêu: Đào tạo con người có khả năng tư duy độc lập, sáng tạo, có chính kiến riêng biệt và biết bảo vệ chính kiến đó.
Nhà trường của chúng ta luôn định huớng để đào tạo ra những con người theo những chuẩn mực được định sẵn. Mọi kiến thức đều phải theo sách vở, theo một luồng tư tưởng chung, không cho phép con người ta "phản biện xã hội". Tôi còn nhớ đến các tranh cãi xôn xao dư luận trên báo chí về một số bài văn "lạ" của một em học sinh trong kỳ thi tốt nghiệp phổ thông.
Nếu tất cả trẻ em Việt Nam đều thấy rằng, cách tốt nhất để tồn tại ở xã hội này là phải suy nghĩ theo đám đông, thì bản thân các cháu sẽ không tự tìm tòi chân lý, dù đó là trong môn toán, hay môn văn, môn sử. Chính cách giáo dục nặng về "định hướng" này đã làm thui chột khả năng tự hình thành nhân cách của học sinh. Hậu quả là chúng ta có được một xã hội khá đồng nhất, nhưng ít có khác biệt về tư duy. Thiếu sự khác biệt ắt sẽ không có tinh hoa, và như một quy luật sinh học, xã hội sẽ rất khó phát triển, thậm chí dẫn đến suy vong. Đó là điều nguy hiểm nhất trong nền giáo dục của chúng ta.
Theo tôi định hướng duy nhất mà một nền giáo dục hiện đại phải hướng tới chính là: Phát triển khả năng tư duy tự do sáng tạo của trẻ, từ mẫu giáo, và tiếp tục bảo vệ các phát triển nhân cách riêng biệt đó cho đến khi vào đời. Nói một cách khác là phải đào tạo những con người có nhân cách độc lập và khả năng suy nghĩ tự do. Những con người này sẽ là cơ sở cho một xã hội dân sự phát triển.
Không làm được điều này, mọi cố gắng cải cách giáo dục, thay đổi sách giáo khoa, thay đổi các hình thức nhà trường mà chúng ta đã làm từ hơn 30 năm qua đều dẫn đến kết cục buồn bã mà tất cả chúng ta đều nhìn thấy. Thực trạng của nền giáo dục Việt Nam hiện đang được tranh cãi trên nhiều diễn đàn và tuy có nêu nguyên nhân khác nhau, song không ai chối cãi là nó đang tiêu cực quá mức báo động, và tất cả đều thống nhất là nguyên nhân của nó có nguồn gốc từ cơ chế quản lý xã hội.
Xã hội và con người
Giả thiết hệ thống nhà trường của chúng ta đã giải quyết được các khiếm khuyết nêu trên và làm tốt nhiệm vụ ương ra các cây giống lành mạnh cho xã hội thì liệu trong hoàn cảnh một mảnh đất như ở ta, các cây non đó có thể phát triển thành các đại thụ như ở các mảnh đất khác không? Nhìn sang các nước đang phát triển cạnh ta, chúng ta đã thấy họ có nhiều đóng góp cho nhân loại.
Các ông U-Thant người Miến Điện, ông De Cuellar người Peru, ông Butros Ghali người Ai Cập, ông Kofi Annan, người Ghana, ông Bankimoon người Triều Tiên đều lần lượt làm Tổng thư ký Liên hợp quốc. Đất nuớc Thái Lan cũng có ông Supachai Panitchpakdi từng làm Tổng giám đốc WTO. Tất cả vị này đều do các nhà nước đó đào tạo ra, trong các điều kiện khó khăn hơn ta ngày nay nhiều.
|
Nhà trường của chúng ta luôn định huớng để đào tạo ra những con người theo những chuẩn mực được định sẵn (Ảnh: VnEpress.net) |
Trong suốt quá trình lịch sử hàng ngàn năm, dân tộc ta đã tự hào vì có Trần Quốc Tuấn đánh bại quân Nguyên Mông, đạo quân đã từng làm cỏ phần lớn châu Âu và Trung Hoa. Chúng ta tự hào về Nguyễn Trãi biết lấy chí nhân để thay cuờng bạo, đánh tan 10 vạn quân Minh xong vẫn cấp lương thảo cho hàng binh rút lui, về Quang Trung thao luợc trong vòng 3 ngày đêm đánh tan 20 vạn quân Thanh.
Ở thế kỷ 20, thế giới vẫn nhớ đến Việt Nam bởi các danh từ Hồ Chí Minh, Điện Biên Phủ. Nhưng tất cả đó đều là chuyện của quá khứ, khi thế giới chưa hề biết đến hội nhập hay toàn cầu hóa. Ngày nay chúng ta hơi ngỡ ngàng là tuy nước ta đã có vị trí quốc tế cao hơn truớc, đã tiếp nhận rất nhiều trí thức Việt kiều, xuất thân từ những gia đình có truyền thống, được ươm trong các vườn cây ưu tú nhất của châu Âu trở về giúp cho chính quyền từ mấy chục năm nay.
Vậy mà chúng ta không hề có một đại diện nào đứng ở các vị trí then chốt của các tổ chức quốc tế như đã nêu trên chứ chưa dám mơ đến vị trí đứng đầu như các ông kia. Câu hỏi đặt ra là phải chăng mảnh đất này đã không cho phép các tinh hoa đó phát triển như mong muốn?
Thực tế cho thấy có không ít chuyên gia được đào tạo ở nuớc ngoài khi về nước đã làm sai chuyên môn sở trường. Trong hoàn cảnh xã hội trọng bằng cấp như ở ta thì các loại bằng cấp ở nuớc ngoài về quả là đắt giá. Nhưng chính cái hoàn cảnh mà phẩm chất và năng lực chuyên môn không phải là yếu tố đánh giá chất luợng cán bộ đã khiến những cái bằng này lập tức chuyển hướng đi tìm chỗ đứng của chúng là quan trường. Hậu quả là chỉ sau một thời gian ngắn, những tố chất được rèn luyện tại các vườn ương cây ưu tú kia sẽ bị lối sống thực dụng, giả dối và lối suy nghĩ một chiều hủy diệt.
Số may mắn được làm đúng ngành nghề thì lại không sống nổi với đồng lương và cuối cùng lại phải xoay xở để kiếm sống. Mà đã xoay xở kiếm sống thì anh phải tự uốn mình để phù hợp với xã hội và rốt cuộc là bị rơi vào cạm bẫy của cái gọi là "cơ chế thị trường". Còn nếu ai vì quá tự trọng mà không chấp nhận luật chơi của xã hội thì sẽ tự cô lập bản thân và sẽ tự thui chột theo một dạng khác.
Tất cả những não trạng này có lẽ ai cũng biết và mỗi khi đọc đến ai cũng sẽ kêu lên: Biết rồi khổ lắm nói mãi! Thậm chí có người còn nói: "Ở nước ta không phải đơn giản xã hội làm hỏng con người, mà là con người làm hỏng xã hội. Chính các thói xấu như ưa thành tích, ưa nói dối, thích kèn cựa, quen hối lộ đã gây ra các quốc nạn hiện nay!".
Tuy thấy rõ đây là một ý kiến ngụy biện, tìm cách đánh "lộn sòng" vai trò của nạn nhân và thủ phạm, nhưng ít ra nó cũng nêu lên mối quan hệ tương hỗ giữa con người và xã hội. Và nếu chấp nhận ý kiến này, coi xã hội ta đang bị chi phối bởi những con người với các thói xấu như vậy thì phải chăng nên đặt câu hỏi: Chúng ta đã có "chiến lược con người" đúng đắn?
Để cho mảnh vườn Việt Nam thành mảnh đất mầu mỡ cho các loại cây giống lành mạnh, đã đến lúc chúng ta phải mạnh dạn nhìn thẳng vào sự thật để tìm được cách thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn mà "càng đi nhanh càng sai" đó. Để làm được việc này mỗi người dân, mỗi người trí thức phải dũng cảm vượt qua chính mình để cất lên tiếng nói phản biện, góp phần tìm ra chân lý.
Mao Trạch Đông, ngàn năm công tội - tác giả Tân Tử Lăng . |
|
[17.04.2010 21:29] NĐ: Trong cuốn sách dày công nghiên cứu "Mao
Trạch Đông,ngàn năm công tội" đang bán rộng rãi trên thị trường là tác
phẩm của Đại tá Tân Tử Lăng , cán bộ nghiên cứu và giảng dạy tại Học
viên quân sự cao cấp, Đại học quân chính, Đại học Quốc phòng Trung Quốc
đã viết : "Chẳng có mục tiêu cao đẹp của chủ nghĩa cộng sản nào hết, đây là một mệnh đề do người sáng lập chủ nghĩa Mác nêu ra hồi trẻ và đã từ bỏ vào những năm cuối đời..." >>>> |
9.000 giáo sư Việt Nam và một lời nói dối |
|
[17.09.2012 09:46] NĐ: Theo số liệu của Ủy ban khoa học, công
nghệ và môi trưởng của QH, Việt Nam có hơn 5 vạn cán bộ nghiên cứu khoa
học đang “nghiên cứu” trong hơn 1.100 viện, cơ sở nghiên cứu các loại.
Nhưng rút cục, đến cái máy tuốt lạc nông dân vẫn cứ phải trông vào một
nhà nghiên cứu không phải giáo sư, cũng chẳng tiến sĩ khi mà nền công
nghiệp của một đất nước đông giáo sư tiến sĩ như Việt Nam thậm chí còn
không làm nổi một chiếc vít, theo đúng nghĩa đen của từ này, cho Canon
Việt Nam. |
Thư giãn Chủ nhật: Cô bé 5 tuổi "nuôi" hàng vạn người lớn
Bi kịch hậu 20/11: Cô giáo chê phong bì...
Lập hội đồng kỷ luật thầy giáo bắt học sinh thụt dầu 100 cái
'Kịch bản' lừa của thầy giáo trẻ
Vụ hiệu trưởng mua dâm: Nữ sinh làm gì để "thoát hiểm"?
Hàng nghìn học sinh bỏ học sau Tết
|
Nguyễn Quốc Minh (Theo Vietnam.net) |