Cuộc chiến 1979 và Hoàng Sa
17.02.2009 04:40
|
Nghe chưa ??? |
.......... Tôi công bố bài viết này không chỉ vì sắp đến ngày 17/2 mà còn vì, muốn lưu ý, “người Trung Quốc làm gì cũng có tính toán”, không nên đặt cuộc chiến tranh 17/2 ra ngoài âm mưu Biển Đông.....
HUY ĐỨC.
CUỘC CHIẾN 1979 VÀ HOÀNG SA.
HUY ĐỨC
|
|
Còn nhiều tranh luận về nguyên nhân dẫn tới cuộc chiến Việt-Trung |
Ngày
7/2/1979, tại Tokyo, khi ngầm thông báo với báo chí một chiến dịch
“trừng phạt” Việt Nam, Đặng Tiểu Bình giải thích: “Hiệp ước mà Việt Nam
và Liên Xô ký kết có tính chất đồng minh quân sự. Việt Nam đã mở cuộc
xâm nhập vũ trang vào Campuchia và đang khiêu khích ở biên giới Trung
Quốc”.
Tuy nhiên, nguyên nhân thực sự của cuộc chiến tranh mà Đặng Tiểu Bình thực hiện 10 ngày sau không đơn giản chỉ là những gì
được nói ra trong lời tuyên bố ấy.
Hiệp ước mà ông Đặng đề cập là Hiệp ước hợp tác toàn diện giữa Việt Nam và Liên Xô, ký ngày 3/11/1978.Hiệp ước này được ký kết sau khi mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc đã rất trầm trọng: Trung Quốc yêu cầu Việt Nam đóng
cửa ba tổng lãnh sự quán (6/6/1978) và cắt toàn bộ viện trợ (7/1978).
Yếu tố Liên Xô và Campuchia
Ngày 29/1/1979, khi hội đàm ở Mỹ, Đặng Tiểu Bình nhắc tới Campuchia, Afghanistan với Tổng thống Jimmy Carter và cảnh báo “nguy
cơ phản ứng dây chuyền”. Carter “đồng ý với Đặng cách nhìn nhận” ấy.
Tuyên bố chung, ra hai ngày sau đó, nhấn mạnh: “Trung-Mỹ chống lại bất kỳ quốc gia hoặc tập đoàn quốc gia nào mưu kế bá quyền”.
Đặng đã thành công khi sử dụng liên minh Việt-Xô để gieo rắc hoài nghi, khiến Mỹ làm ngơ cho Trung Quốc đánh Việt Nam, dù
bên trong Đặng không hề đánh giá cao “liên minh” ấy.
Trong hội nghị do Quân ủy Trung ương Trung Quốc triệu tập, bàn “chủ trương” đánh Việt Nam, không ít tướng lĩnh đã cảnh báo
nguy cơ bị Liên Xô tấn công.
Khi ấy, trên biên giới Trung- Xô, Liên Xô bố trí tới 50 sư đoàn chủ lực.
Đặng Tiểu Bình nhận định: “Liên Xô không thể không xét tới nhiều nhân tố quốc tế nên khả năng (vì Việt Nam mà) can thiệp vào
Trung Quốc là rất ít”.
Trên thực tế, một tuần sau khi Trung Quốc đánh Việt Nam, không thấy Liên Xô “ra tay”, Trung Quốc đã đánh tiếp sang thị xã
Lạng Sơn, và chỉ rút khi trên hướng này Quân Đoàn II xuất hiện.
Tại thời điểm Đặng tuyên bố với báo chí (7/2/1979), quân đội Việt Nam có mặt ở Phnom Penh vừa tròn một tháng, nên “yếu tố
Campuchia” có vẻ như rất dễ thuyết phục.
Nhưng, theo cuốn sách “10 Năm Chiến Tranh Trung Việt” của NXB Đại học Tứ Xuyên, công bố năm 1993, ngay trong Hội Nghị Quân
ủy Trung ương, từ 7 đến ngày 9 tháng 12 năm 1978, Trung Quốc đã quyết định đánh Việt Nam.
Trong ngày 9/12/1978, Quyết định này đã được “tuyệt mật” chuyển tới tay tướng Hứa Thế Hữu (Tướng Hữu cùng với Dương Đắc Chí
là hai tướng chỉ huy cuộc chiến tranh 17/2).
Trong khi mãi tới ngày 25/12/1978, quân đội Việt Nam mới bắt đầu mở chiến dịch đánh sang Phnom Penh.
Khi Khmer Đỏ chưa nắm được chính quyền, đang “ăn nhờ, ở đậu” gần Trung ương Cục (Việt Nam), Pol Pot, Yeng Sary đã “đi lại”
với Bắc Kinh.
Năm 1970, Lon Non lật đổ Sihanouk, Pol Pot đã rất cay cú khi Sihanouk được đưa về Hà Nội. Pol Pot nhận ra, họ không phải là
lực lượng duy nhất mà Việt Nam ủng hộ ở đất nước nhỏ bé này.
Cho
dù sau đó “lá bài” Sihanouk cũng được “nuôi” ở Bắc Kinh như một ông
hoàng, người Trung Quốc đã khéo léo nhen nhúm hiềm khích Việt Nam cho
Pol Pot. Chính vì thế mà ngay trong năm 1975, Khmer Đỏ đã phản bội Việt
Nam, bắn giết ở Phú Quốc, ở Thổ Chu và từ năm 1977 đánh sang An Giang,
Tây Ninh, có khi vào sâu hơn 10 km.
Tuy nhiên, cho dù có bị “mất mặt” khi chế độ diệt chủng Khmer Đỏ do Trung Quốc hậu thuẫn bị Việt Nam đánh đổ ở Phnom Penh.
Liệu Trung Quốc có phải là một “đàn anh” trung thành với lân bang đến mức hy sinh mình như vậy?
Vấn đề 'nạn kiều'
Người
Hoa và vấn đề “nạn kiều” cũng đóng một vai trò nhất định. Thật khó lý
giải vì sao cuộc “cải tạo tư sản công thương nghiệp”, đụng tới hàng
trăm nghìn người Hoa, lại được Việt Nam tiến hành năm 1978, khi mà mối
quan hệ với Trung Quốc đang hết sức căng, nếu như không đề cập đến câu
chuyện sau đây, câu chuyện mà sách vở chưa bao giờ nói đến.
Bí thư Thành ủy TP HCM vào thời điểm 1975, ông Võ Văn Kiệt, kể: “Sau ngày 30/4, ở khu vực Chợ Lớn có một chi bộ có vũ trang
thuộc bộ phận hải ngoại của đảng Cộng Sản Trung Quốc".
"Chi bộ này xuất hiện bí mật từ trước 30/4 và khi đó họ đòi được công khai hoạt động.”
Để một lực lượng Trung Quốc có vũ trang ở Chợ Lớn thì cũng không khác chi “đặt mồi lửa dưới đống củi”, Việt Nam buộc phải
“giải giáp” họ. Bắc Kinh rất khó chịu về vụ “giải giáp” này.
Nhưng, cho dù có bao nhiêu người Hoa đã phải ra đi trong năm 1978 thì “nạn kiều” vẫn là một “lá bài” mà Trung Quốc cũng chủ
động “chơi” chứ không hẳn là nguyên nhân khiến cho Đặng Tiểu Bình đưa quân sang Việt Nam xâm lược.
Tác giả của “10 Năm Chiến Tranh Trung Việt” còn chỉ ra một vấn đề rất có thể cũng là nguyên nhân: Năm 1978, Đặng Tiểu Bình
vừa khôi phục lại quyền lãnh đạo quân đội.
“Ông có ý thức nhạy bén… thông qua cuộc chiến tranh, vừa thăm dò được sự trung thành (của quân đội), vừa làm cho các nhà lãnh
đạo (Trung Quốc) khác nhận rõ những mặt phải cải cách quân đội”.
Đại
tá Hà Tám, chỉ huy trung đoàn 12 anh hùng đánh Trung Quốc tháng 2/1979,
cho biết: “Mặc dù pháo theo cùng của Trung Quốc bắn khá chính xác,
nhưng, bộ binh thì chủ yếu dùng ‘biển người’; chỉ huy của Trung Quốc
lúc ấy ra trận mà vẫn có người che ô, quân thì chờ kèn kêu mới xông
trận”.
Sau ngày 17/2, Trung Quốc đã gấp rút cải cách quân đội, và họ đã “thử nghiệm” lại trên Biên giới Việt Nam vào ngày 28/4/1984
bằng một chiến dịch với phương thức chiến tranh hoàn toàn mới.
Tính toán của Trung Quốc
Đặng Tiểu Bình nói: “Người Trung Quốc làm gì cũng có tính toán”.
Cuộc chiến tranh được huy động khi mà Trung Quốc đang vô cùng lạc hậu sau các cuộc cách mạng “da thịt tàn nhau” không chỉ
nhắm đến một mục tiêu.
Bằng cách kể lể kiểu chương hồi, cuốn sách mà Trung Quốc cho công bố - “10 Năm Chiến Tranh Trung Việt” - đã để lộ một ý đồ
thâm sâu của Đặng, đó là vấn đề Hoàng Sa, Trường Sa.
Ngay sau khi kết thúc chiến tranh ở miền Nam, các nhà lãnh đạo Việt Nam đã bày tỏ thái độ khá kiên định về chủ quyền của Việt
Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa, quần đảo mà từ lâu Trung Quốc đã rắp tâm thôn tính.
Tháng
6/1975, Bộ Ngoại Giao Việt Nam gửi công hàm cho Trung Quốc về vấn đề
Hoàng Sa. Ngày 24/9/1975, khi gặp Đặng Tiểu Bình ở Bắc Kinh, Bí thư thứ
nhất Lê Duẩn đã “yêu cầu phó thủ tướng Đặng Tiểu Bình đàm phán về vấn
đề Hoàng Sa và Trường Sa”.
Tháng
4/1977, trên đường đi Liên Xô ghé qua Bắc Kinh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng
cũng đã gửi đến Trung Quốc thông điệp của Việt Nam về hai quần đảo ấy.
Tuy nhiên, trước sau Trung Quốc đều một mực “yêu cầu Việt Nam trở lại
lập trường trước năm 1974”.
“Lập trường
trước năm 1974”, theo cuốn sách “10 Năm Chiến Tranh Trung Việt” là
“Tuyên bố của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958”. Cuốn sách nói là Đặng
Tiểu Bình đã rất “khó chịu” với Bí thư thứ nhất Lê Duẩn, Đặng nói: “Vấn
đề này không cần thiết phải đàm phán… (đó) là lãnh thổ Trung Quốc”.
Có lẽ, năm
1979, Đặng Tiểu Bình nghĩ là có thể đè bẹp ý chí của người Việt Nam
trong vấn đề đòi lại Hoàng Sa và Trường Sa nên đã phát động chiến
tranh. Và, các yếu tố như Liên Xô, Campuchia được Đặng vận dụng tối đa
để cô lập Việt Nam trên trường quốc tế.
Điều cay đắng là, lẽ ra Đặng đã không thể cô lập Việt Nam để gây đổ máu của dân ta như thế nếu như sau 1975, Việt Nam thiết
lập quan hệ ngoại giao với các nước trong khối ASEAN ngay và đặc biệt, bình thường ngoại giao với Mỹ.
Năm 1977, khi Mỹ chìa tay ra cho Việt Nam, theo Tổng thống Jimmy Carter, “vấn đề bồi thường chiến tranh đã gây khó khăn”.
Rồi, trong khi Việt Nam đang loay hoay thì Đặng Tiểu Bình đã khai thác yếu tố này ngay, để thiết lập được quan hệ ngoại giao
với Mỹ và đặt Việt Nam vào tình huống bị bao vây, cấm vận.
Tất nhiên, “ý thức hệ” đóng một vài trò quan trọng trong quyết định “nhất biên đảo” với Liên Xô; năm ấy, báo Nhân Dân vẫn
chỉ trích Đặng về chủ thuyết “mèo trắng, mèo đen” và ngày nay, chúng ta vẫn cần phải quan tâm tới bài học ấy.
Tôi công bố bài viết này không chỉ vì sắp đến ngày 17/2 mà còn vì, muốn lưu ý, “người Trung Quốc làm gì cũng có tính toán”,
không nên đặt cuộc chiến tranh 17/2 ra ngoài âm mưu Biển Đông.
Bản Giốc, Tục Lãm… giờ đã xong; nhưng, Hoàng Sa, Trường Sa thì vẫn đó.
Nguồn : Cuộc Chiến
1979 và Hoàng Sa
Comments:
Dove Chiến tranh 1979 là một trong những cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại nhất của dân tộc Việt Nam và là cống hiến mang tính quyết
định cho công cuộc xây dựng một ASEAN hoà bình và thịnh vượng.
Về
nguyên nhân của cuộc chiến: vào cuối năm 1977, khi Trung Quộc và Khơ me
đỏ đã dựng nên một chế độ maoist diệt chủng mù quáng và biến Đại sứ
quán ở Pnom-pênh thành một bộ chỉ huy tiền phương, thì tham vọng thôn
tính ASEAN đã trở nên gần với hiện thực hơn bao giờ hết. Để đạt được
mục tiêu cuối cùng, họ đã chọn Nam Bộ là chiến trường chính và biên
giới phía Bắc là chiến trường bổ trợ. Về chiến trường Nam Bộ: Việt Nam
đã thắng rất lớn về mặt quân sự mà chỉ gây ra thảm hoạ nhân đạo ở mức
độ rất thấp.
Còn Trung Quốc đã thắng rất đậm trên mặt trận ngoại giao-truyền thông với việc ém nhẹm mục tiêu cuối cùng và xây dựng hình
ảnh rất nhậy cảm về Việt Nam như một kẻ xâm lược.
Về chiến trường biên giới phía Bắc: Trung Quốc chỉ có mục đích vớt vát thể diện và gửi đến Mỹ một thông điệp về quyết tâm
chống bá quyền Liên Xô.
Thực
tế là liên minh với Trung Quốc để chống bá quyền Liên Xô đã hình thành
trên một chiến tuyến kéo dài từ ASEAN đến Afganistan và được xem là ưu
tiên hàng đầu trong chiến lược địa chính trị của Mỹ. Đặng Tiểu Bình đã
khích cho Mỹ lâm vào thế vào sa lầy ở Afganistan và nếu Việt Nam thua ở
chiến trường Nam Bộ thì ASEAN sẽ mất.
Hiện nay, Mỹ đang hướng về châu Á vì vậy mong họ đủ sáng suốt để chớ có lại một lần nữa mắc lừa Trung Quốc, xúm vô dạy ai
đó bằng cái giá sinh mạng của hàng triệu thường dân vô tội.
Cuộc
chiến năm 1979 không thể được đặt tên chính xác nếu xem chiến trường
Nam Bộ là chỉ là chiến tranh biên giới Tây Nam mà không tính đến chiều
sâu của ý đồ chiến lược mà Trung Quốc đã ém nhẹm rất thành công. Bài
học cần rút ra đó là Việt Nam không thể bị đánh bại bằng B52 và bằng
“biển người” mà chỉ có thể tự làm cho mình bị tê liệt bởi quốc nạn tham
nhũng và bị ly tán do lợi ích phe nhóm.
Su That, Hanoi Ta
thua thiệt với TQ về đất và biển đảo là chuyện tất nhiên, làm sao mà có
thể có công bằng cho kẻ thấp cổ bé họng như VN. Dân gian có câu “Đất có
thổ công, sông có hà bá”, nghĩa là ở đâu cũng có kẻ mạnh chuyên bắt nạt
người khác. Vấn đề là VN chúng ta phải biết chọn đồng minh, chọn đối
tác cho phù hợp để có thể giữ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, đồng thời
phát triển về kinh tế, khoa học và văn hóa.
Đó cũng là
cách để ta nâng cao vị thế quốc tế. Trên thế giới có mấy tay anh chị
Nga, Mỹ và anh chàng hàng xóm to xác Trung Quốc. Ta nên chọn ai làm
đồng minh lâu dài, “Chọn bạn mà chơi” nhưng cần nhớ “Giang sơn dễ
chuyển, bản tính khó dời”. Người TQ cả mấy nghìn năm có 1 tính xấu khó
sửa là thích xâm lược VN, vậy ta nên dứt khoát với họ. Nếu tôi được
quyết định, tôi sẽ chọn Mỹ.
Strength Tôi không thích hễ nói đến VN là nói "kiên cường" hay "anh hùng". Những từ ấy hình như không còn thích hợp trong thời đại
ngày nay.
Kiên
cường, anh hùng đã làm gì được TQ khi chúng lấy HS và TS của ta? Cũng
thế, dân Palestine không kiên cường ư, nhưng đã làm gì được với vài
chục khẩu pháo để chống lại lực lượng Israel hùng hậu với máy bay, xe
tăng, pháo hạng nặng?
Thời này,
hay nhất là anh phải mạnh về quân sự thì mới mong chẳng ai hiếp đáp
anh. Xem như Bắc Hàn, mặc dù "bẹt hạng" về kinh tế, nhân dân lầm than
đói khổ, nhưng nhờ mạnh quân sự thì có ai bắt nạt được ông "Chí Phèo"
này, ngược lại anh ta còn chơi màn thỉnh thoảng đe dọa các nước khác
cho oai!
Thời này
cũng không thích hợp cho cuộc chiến tranh du kích nhân dân như cách đây
mấy mươi năm. Muốn! độc lập chủ quyền, muốn có tiếng nói mạnh trên
trường quốc tế, và nhất là muốn không bị mất thêm đất đai lãnh thổ,
đồng thời muốn hy vọng lấy lại những phần đất đã mất thì không gì hơn
là có thực lực quân sự thật hùng mạnh- không thể khác được!
Dang Van Khoa, HN Lịch
sử VN chứng minh rằng, Dân tôc Việt là một dân tộc kiên cường, khi cần
thiết đủ sức mạnh đánh bại mọi cuộc xâm lăng! Thậm chí ngay bây giờ,
nếu TQ gây hấn sẽ có triệu triệu thanh niên VN tiếp bước cha anh mình
gìn giữ sự toàn vẹn của Tổ quốc.
Tuy nhiên chúng ta là một nước còn yếu, vì vậy khôn ngoan nhất vẫn là đa phương hoá các quan hệ, để gìn giữ hoà bình và yên
ổn làm ăn.
Nhưng
cũng luôn luôn phải cảnh giác với " Anh lớn" TQ, vì họ hiểu người Việt
nhất. Hơn nữa trong tâm thức của họ, VN là một nước nhựơc tiểu mà họ đã
từng đô hộ, vừa là cái gai, vừa là miếng mồi để họ tiến về phía nam và
biển Đông. Có lẽ Bác Hồ rất hiểu anh lớn TQ.
PPT, VN Trong
khi bên ngoài sôi động mà truyền thông trong nước im ắng là lẽ tự
nhiên. Người ta biết rằng tâm bão là nơi yên tĩnh nhất. Việt Nam nay là
tâm bão, nơi mà người dân đòi hỏi CQ trả lời dứt khoát về thái độ thân
theo TQ, về việc đòi lại chủ quyền các đảo, về việc nhượng bộ biên
giới, và quan trọng nhất là việc gạt nhân dân ra khỏi các mối quan tâm
về sự tồn vong của đất nước. Người ta đặt thành vấn đề phải ai đó tìm
cách trói tay dân chúng cho quân thù cướp nước?
Lịch sử có
tính tích lũy. Và căn cứ vào đó thì ai còn tin vào lối hành xử bình
đẳng của nhà cầm quyền Bắc Kinh là ngu xuẩn. Chính quyền này chưa đủ
văn minh để hành xử như các nước phương Tây. Họ vẫn đang ở thời kỳ
phong kiến và sử dụng chủ nghĩa CS để phát triển chế độ phong kiến.
Vì vậy dù
cho không có thỏa hiệp Việt-Xô hay VN không đem quân vào KPC thì TQ vẫn
thôn tính nước ta, cách này hay cách khác. Cái tích lũy mà cố TT Kiệt
nhắc tới là LLVT TQ có mặt ở tận SG khi chúng ta đang mừng thống nhất.
Cái tích lũy mà ĐT Giáp nhắc nhở là TQ có thể tạo nên các đạo quân giữa
lòng Tây nguyên qua việc đầu tư.
Những cái tích lũy đó cho chúng ta cảm giác đến lạnh xương sống mà chỉ những kẻ vô trách nhiệm hay rắp tâm phản bội mới hèn
nhát nhượng bộ chứ chẳng phải giỏi giắng gì trong việc ngoại giao.
Thang, Hanoi Có
bạn đã viết 80 triệu dân Việt ủng hộ chính phủ thì TQ có 1tỷ dân ủng hộ
thì việc biểu tình phản đối có ích gì? Suy nghĩ như vậy là sai lầm. Thế
giới ngày nay đã gần 7 tỷ người, tiếng nói chính nghĩa của 80 triệu
đồng bào trong nước sẽ là tiếng vang đủ lớn để tạo ra phản ứng cộng
hưởng của hơn sáu tỷ người dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới đứng
về chính nghĩa Việt nam.
Hơn nữa tư
tưởng Bành trướng nước lớn chủ yếu chỉ tồn tại trong đầu óc giới lãnh
đạo Bắc Kinh chứ nó cũng không phải là tuyệt đối trong trí thức và
giới trẻ TQ. Bằng chứng là việc đình chỉ thành lập huyện đảo Tam sa của
nhà cầm quyền Bắc Kinh. Nhà cầm quyền VN hãy vì dân tộc đừng bịt mắt
che tai người dân trong nước để đấu tranh đòi lại chủ quyền đang bị
Cộng sản phương Bắc chiếm đóng. QH, Phan Thiết Huy Đức xứng đáng là nhà phân tích chính trị hàng đầu Việt Nam hiện nay. Những bài viết của anh dù chỉ đăng trên blog cá nhân
nhưng chứa đựng đầy thông tin bổ ích, không chỉ cho dân thường mà còn giúp ích cho cả những ông quan cấp cao . |
Nguyễn Quốc Minh (Theo Blog OSIN của nhà báo Huy Đức) |