Tôi khẩn thiết cầu mong các bạn đọc
trẻ hãy đọc bức thư ngỏ này và tất cả chúng ta, con dân nước Việt hãy đứng
bên nhau trong giờ phút đất nước đang bị đe dọa nghiêm trọng, cùng suy nghĩ
và đồng lòng góp sức, tìm ra cách tốt nhất, đối phó một cách hiệu quả nhất
cho sự bình an của Tổ Quốc ta. Và ngay khi có thể, các bạn hãy giúp tôi, đưa
bức thư này đến những người thân quen của các bạn, càng nhanh, càng đông, tôi
càng biết ơn các bạn!
Nguyễn Khắc Phục
Hà Nội, ngày 08 tháng 12 năm 2008
Bạn đọc trẻ thân quý!
Tôi tên là Nguyễn Khắc Phục, hội viên Hội
Nhà Văn Việt Nam, đã về hưu và tiếp tục sáng tác tại Hà Nội. Cách đây đúng
một năm (ngày 08.12.2007), trước những hành vi sai trái, nguy hiểm của nhà
cầm quyền Trung Quốc đe dọa chủ quyền, an ninh lãnh thổ nước ta, tôi đã phải
viết một bức thư ngỏ gửi các nhà văn Trung Quốc. Một năm sau, những diễn biến
nói trên mỗi lúc một thêm nghiêm trọng, nhà cầm quyền Bắc Kinh càng có nhiều
hành động không thể chấp nhận được, đưa ra những đòi hỏi cực kì vô lý, đi
ngược lại mọi chuẩn mực công pháp quốc tế, đạo lý khi tuyên bố chủ quyền đối
với vùng biển có diện tích khoảng 75% Biển Đông. Tham vọng bất chính, bất hợp
pháp của họ không dừng lại ở việc xâm chiếm phi pháp Hoàng Sa, đe dọa Trường
Sa mà còn tiếp tục những mưu toan ngang ngược, trắng trợn đòi chiếm
luôn cả vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn của Việt Nam vốn
nằm cách đảo Hải Nam của Trung Quốc 1000 km, bất chấp chủ quyền không thể
chối cãi của Việt Nam đối với vùng biển này đã được luật quốc tế và các bên
liên quan công nhận (xin tham khảo thêm tư liệu ở TUANVIETNAM ngày 8.12.2008-
Chủ quyền VN ở vùng Nam Côn Sơn, Tư Chính, Vũng Mây của Dương Danh Huy - Lê
Minh Phiếu). Thật ra những diễn biến nguy hiểm mới này chỉ là những biểu hiện
tiếp tục một cách lô-gic của chủ nghĩa bành trướng và tham vọng bá quyền thâm
căn cố đế trong đầu óc của nhà cầm quyền Bắc Kinh.
Vì thế, hôm nay tôi phải viết thư ngỏ
này, khẩn thiết gửi các bạn đọc trẻ - đồng bào máu thịt của mình, giãi bầy
với trách nhiệm công dân, những suy nghĩ nghiêm túc, canh cánh và tâm huyết
nhất của mình, một người bình thường trong ngót trăm triệu con dân nước Việt
đang sống trên Tổ Quốc hay ở nước ngoài, rằng: Nhân dân Việt Nam vốn chỉ có
một nỗi khao khát thiết tha duy nhất, được sống bình yên, hạnh phúc, hữu nghị
và làm bạn với tất cả các nước láng giềng và các quốc gia trên thế giới,
nhưng những gì nhà cầm quyền Trung Quốc đã, đang và sẽ làm, đang đe dọa
nghiêm trọng, hủy diệt nỗi khao khát thiết tha nói trên!
Có một sự thật hiển nhiên: Muốn hiểu rõ bản chất của tội ác, tham vọng bất
chính của các thế lực đen tối, chúng ta không còn cách nào khác là truy ngược
lên, tìm gốc rễ sâu xa của những tội ác và tham vọng nói trên!
Nỗi ưu tư này càng nóng bỏng, nhức nhối trong mỗi con tim Việt Nam, khi sắp tròn
30 năm ngày xẩy ra sự kiện quân đội Trung Quốc xâm lược Việt Nam (17. 02.
1979 - 17. 02. 2009)!
Đến đây, chúng ta lại phải đối mặt với một sự thực rất đau lòng và không thể
chấp nhận được: Trong lịch sử hiện đại của đất nước, sự kiện Trung Quốc xâm
lược Việt Nam năm 1979 là một trong những sự kiện đặc biệt và quan trọng bậc
nhất, lại hầu như rất ít khi được nhắc tới dưới mọi hình thức, phương tiện
thông tin, từ những nghiên cứu sử học, đến các tác phẩm văn
chương - nghệ thuật phản ánh đề tài hiện thực này. Theo tôi biết, không phải
không có những công trình, tác phẩm liên quan trực tiếp hay gián tiếp, với
quy mô lớn, vừa hoặc nhỏ, đề cập tới sự kiện lịch sử này. Vậy vì sao những
công trình, tác phẩm ấy không được công bố? Ai phải chịu trách nhiệm, họ muốn
gì khi chủ trương như vậy? Đó không chỉ là biểu hiện ô nhục, hèn nhát mà còn
làm yếu đi sức mạnh của chính nghĩa và khả năng tập hợp đại đoàn kết dân tộc
trước nguy cơ ngoại xâm.
Ở đây, tôi chỉ điểm lại một vấn đề mấu chốt hệ trọng và dễ thấy nhất, liên
quan đến cái cớ nhà cầm quyền Trung Quốc vin vào để phát động cuộc chiến tranh
xâm lược Việt Nam năm 1979.
Ngay sau khi lên nắm quyền ở Căm-pu-chia, tập đoàn Pôn Pốt được Bắc Kinh dung
dưỡng, cổ súy cả tinh thần, vật chất, cả hệ tư tưởng, bày mưu tính kế, cố vấn
cao cấp hoặc trực tiếp huấn luyện, đã ngang nhiên xâm lấn và phá hoại cuộc
sống yên lành của nhân dân ta dọc biên giới, đồng thời thực hiện một chế độ
diệt chủng với chính đồng bào mình, tàn bạo, vô nhân đạo bậc nhất trong lịch
sử nhân loại.
Việt Nam buộc phải tiến hành các biện pháp bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ
và cuộc sống, sinh mạng của đất nước, nhân dân mình, giáng trả bọn xâm lược
theo đúng công pháp và tập quán quốc tế về "quyền tự vệ chính
đáng". Và lịch sử đã diễn ra theo đúng lô-gic của nó. Ngày mồng 7 tháng
1 năm 1979, bộ đội tình nguyện Việt Nam theo yêu cầu của Đảng Nhân Dân Cách
Mạng Căm-pu-chia, tiến vào đất bạn, góp sức cùng các lực lượng yêu nước, yêu
công lý Căm-pu-chia, chặn đứng nạn diệt chủng, giải phóng đất nước Chùa Tháp
thoát khỏi họa diệt vong... Và chỉ 37 ngày sau, ngày 17 tháng 2 năm 1979,
Trung Quốc phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam! Vì sao họ "nhanh
nhẹn" như vậy khi gây ra tội ác này? Họ nhân danh cái gì để xâm lược
Việt Nam?
Như mọi lần, Bắc Kinh lại biến trắng thành đen , vu cáo "Việt Nam tiểu
bá xâm lược Căm-pu-chia" và Trung Quốc phải "dạy cho Việt Nam một
bài học". Thế là họ tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược tổng lực, không
từ bất cứ tội ác nào chống lại dân thường Việt Nam, phá hủy tan hoang thị xã,
thành phố, làng mạc, nhà máy, xí nghiệp, cầu cống trên địa phận các tỉnh phía
Bắc Việt Nam giáp biên giới Trung Quốc, theo một kế hoạch được vạch trước,
với mưu đồ nham hiểm là đánh quỵ Việt Nam không chỉ ở khả năng phòng thủ,
tiềm lực kinh tế - quân sự mà còn nhằm hăm dọa, làm tan rã ý chí yêu
nước, cắt đứt truyền thống quật cường chống ngoại xâm chảy trong máu các thế
hệ người Việt sau này...
Bây giờ, gần 30 năm đã qua, mọi cái đã trở nên minh bạch. Sự thật đã
sáng như ban ngày. Và mọi sự dối trá và đạo đức giả cũng đã được phơi bày
trước thế giới. Việc quân tình nguyện Việt Nam giúp Căm-pu-chia thoát khỏi
họa diệt chủng, dân tộc Khơ -me và nền văn hóa rực rỡ với Ăng-co Vát, Ăngco
Thom đã hồi sinh và đang tiến bước trên con đường hòa bình-phát triển..., đã
được công luận quốc tế thừa nhận. Chính nhân dân cùng Quốc Vương và các nhà
lãnh đạo Căm-pu-chia cũng đã hơn một lần ghi nhận, bày tỏ lòng biết ơn Việt
Nam đã giúp Căm-pu-chia hồi sinh bằng hành động quang minh chính đại, kịp
thời, hiệu quả và đã tốn không ít xương máu, tiền của vì đại nghĩa nói trên.
Sự ghi nhận này không chỉ ở lời nói, dư luận mà cả trong các văn bản chính
thức của Quốc Hội - Nhà Nước Căm-pu-chia. Và bọn thủ ác khủng khiếp nhất mọi
thời đại, bọn mù quáng đi theo đường lối diệt chủng, bọn đã từng được Bắc
Kinh dung dưỡng, khuyến khích, đã phải ra đứng trước vành móng ngựa của Tòa án
Quốc Tế xét xử tội ác chống lại loài người!
Vậy là cái cớ nhà cầm quyền Bắc Kinh vin vào để xâm lược Việt Nam năm 1979 đã
hoàn toàn đổ nhào, khẳng định mạnh mẽ một sự thật: Cuộc chiến tranh Trung
Quốc tiến hành năm 1979 chống Việt Nam là phi nghĩa, phi pháp, phi đạo lý,
cần phải bị lên án đanh thép. Và những kẻ đòi "dạy cho Việt Nam một bài
học", đã lộ nguyên hình ngụy quân tử, đầy dã tâm, tàn ác và nham hiểm.
Nhưng thử hỏi, 30 năm qua, tại sao những kẻ gây nên tội ác xâm lược Việt Nam
năm 1979 chưa bị vạch mặt công khai và đưa ra xét xử trước Tòa án công lý
Quốc Tế? Tại sao chưa có bất cứ cuộc điều tra toàn diện, khách quan và công
bằng nào của các tổ chức, cơ sở nghiên cứu khoa học và cá nhân, về tội ác của
Trung Quốc chống Việt Nam năm 1979, được tiến hành? Hoặc đã có mà chưa
được công bố bởi những lý do nào đó? Ấy là chưa kể một loạt tội ác khác nhà
cầm quyền Bắc Kinh đã gây nên cho nhân dân Việt Nam, chưa bao giờ được thống
kê, phân tích đầy đủ để công bố cho nhân dân ta và thế giới biết rõ:
- Ngày 19-1-1974, hải quân Trung Quốc đã dùng nhiều chiến hạm và phi cơ cưỡng
chiếm toàn bộ Hoàng Sa của ta. Trong trận chiến không cân sức này, 58 binh sĩ
quân đội Sài Gòn đã ngã xuống.
- Tháng 4 năm 1988, Trung Quốc đã thông qua một nghị quyết thành lập
tỉnh Hải Nam, trong đó bao gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Trước
đó, ngày 14 tháng 3 năm 1988, hải quân Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm các
đảo ở Trường Sa. Họ đã bắn chìm ba tàu vận tải của hải quân Việt Nam. 74 chiến
sĩ của chúng tôi đã hi sinh khi bảo vệ mảnh đất thiêng liêng của Tổ Quốc
mình.
Tại sao cái ác, cái xấu, cái đạo đức giả ở tầm vóc "giới cầm quyền một
nhà nước" không bị phanh phui, lên án? Tại sao? Và những ai phải trả lời
câu hỏi này?
Những diễn biến lịch sử và thực tế cuộc sống đã cho chúng ta những bằng chứng
hiển nhiên để không mơ hồ: Về bản chất và tham vọng bất chính, những kẻ đòi
"dậy Việt Nam" năm 1979 và những vị hôm nay trịnh trọng rêu rao
những lời đường mật về "16 chữ vàng" và "4 tốt" là một
đồng một cốt. Khác chăng chỉ ở cách thức, giọng điệu, diễn xuất, càng
ngày thói đạo đức giả và thủ đoạn càng tinh vi, nham hiểm và tàn độc hơn.
30 năm trước, họ nói toạc ra mồm "dạy cho Việt Nam một bài
học" và xua quân đánh qua biên giới. Tàn ác, nguy hiểm lắm, nhưng vẫn ít
nguy hiểm và tàn ác hơn bây giờ, khi họ thi thố đủ các thủ đoạn chính trị -
ngoại giao - quân sự đen tối, được che đậy, ngụy trang khôn khéo, ru ngủ
thiên hạ, chia rẽ, làm suy yếu, vô hiệu hóa mọi khả năng đề phòng, đoàn kết
của các quốc gia, dân tộc trong khu vực (vốn cùng là nạn nhân của chủ nghĩa
bành trướng, bá quyền của họ), chống lại những mưu đồ nguy hiểm bất hợp pháp,
ngang ngược coi thường mọi chuẩn mực công pháp quốc tế; bằng các chiến lược,
chiến thuật cực kì tàn độc, thâm thúy mà có nhà nghiên cứu đã gọi là "chiến
lược diều hâu"!
"Trung Quốc mạnh hơn hẳn Việt Nam và các nước ASEAN khác cùng tranh chấp như Phillipine hay Malaysia. Đây
là một sự thực rõ như ban ngày. Sự chênh lệch về sức mạnh kinh tế và quân sự,
kèm theo các phản ứng rất chừng mực và đơn lẻ, từ các đối thủ ASEAN đã khiến
Trung Quốc tùy ý vận dụng chiến lược diều hâu trên Biển Đông.
Từ khoảng 20 năm đổ lại đây, họ đã sử dụng một công thức tổng hợp bao gồm:(1)
tấn công quân sự quy mô nhỏ (Việt Nam, 1988, Philippine, 1996, 1997), đơn
phương thăm dò và khai thác tài nguyên trên vùng tranh chấp, (3) đe dọa bằng
vũ lực (đối với ngư dân) hoặc sức ép kinh tế (với các tập đoàn dầu khí quốc
tế) nhằm ngăn chặn các đối thủ tiến hành khai thác tài nguyên trong vùng
tranh chấp, (4) chia rẽ các đối thủ bằng kinh tế và ngoại giao, và (5) tuyên
truyền về chủ quyền và thái độ cứng rắn của họ đối với vấn đề Biển Đông trên
toàn thế giới..." ( Dự Trần, cố vấn của Quỹ Nghiên cứu Biển Đông - Theo
TUANVIETNAM ngày 06.12.2008)
Đúng, họ đã mưu toan "ru ngủ", "gây mê", "dọa
dẫm", sử dụng tất cả những mánh khóe tinh vi, biến hóa khôn lường trong
việc kết hợp giữa diễu võ giương oai (thị uy, phô trương sức mạnh quân sự,
khoa học-kỹ thuật) với các chiến dịch ngoại giao đạo đức giả, gây sức ép, tâm
lý chiến (không loại trừ cả "văn hóa chiến" và "hữu nghị
chiến" thông qua phim ảnh, tác phẩm văn học - nghệ thuật, các cuộc gặp
gỡ "hữu nghị", thi đấu thể thao, buôn bán, mậu dịch, viện trợ... ),
tăng cường các hoạt động tình báo, gián điệp, phản gián và cấy vào nội bộ các
nước mà họ muốn thôn tính, một loạt "nội gián", ra sức "li
gián", "mua chuộc", "phân hóa" khối đại đoàn kết
Việt Nam bằng mọi thủ đoạn; nếu không tỉnh táo, dũng cảm và thông minh, chúng
ta lại tự ru ngủ, sợ sệt, hoang mang và tự chia rẽ thêm nữa, thì việc mất nước
chỉ còn là chuyện thời gian!
Vâng, hiện giờ chuyện khẩn cấp và sống còn nhất, liên quan đến lãnh thổ, lãnh
hải thiêng liêng, chủ quyền của Tổ Quốc, số phận, danh dự toàn dân Việt Nam
và tương lai của các bạn, hoàn toàn tùy thuộc vào hành động và nhận thức của
tất cả chúng ta.
Đúng, xét về phương diện thực lực từ kinh tế, trang bị vũ khí, đến khả năng
tác chiến cơ động, hiện đại (đặc biệt là hải quân và không quân), Trung Quốc
mạnh hơn hẳn Việt Nam và các nước trong khu vực. Nhưng cái quyết định trong
chiến tranh không phải lúc nào cũng thuộc về kẻ mạnh vũ khí, tiền bạc, thủ
đoạn.
Một. Nếu các nước trong khu vực nhận thức tỉnh táo và đầy đủ về nguy cơ bành
trướng và "chiến lược diều hâu", biết tập hợp lại, đồng tâm hiệp
lực, tạm thời gác bỏ những bất đồng, tranh chấp lẫn nhau (mà giữa các nước
này với nhau, việc đàm phán đi tới các giải pháp thỏa đáng là có cơ sở và khả
thi), chống lại mọi âm mưu và hành động bá quyền, cảnh giác trước mọi âm mưu
chia rẽ, li gián..., dễ gì Trung Quốc đã có thể tự tung tự tác, muốn làm gì
thì làm?
Hai. Trên bàn cờ quốc tế hiện đại, các cường quốc khác đã từng có mối quan hệ
lịch sử với khu vực này, hiện nay cũng đang coi các nước như Việt Nam -
Philippin- Malayxia..., là các nhân tố được tính đến trong chiến lược phát triển
kinh tế - chính trị - ngoại giao - an ninh của họ, không thể bó tay ngồi im,
để mặc Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng và lấn lướt phi pháp và vô hạn độ, trên bộ,
trên biển, trên không và trên vũ trụ. Trước hết vì quyền lợi của chính nước họ,
sau nữa có thể họ làm như vậy vì được thúc đẩy bởi những đòi hỏi của lương tri,
tầm nhìn xa và cũng có thể do họ nhận thức được lời cảnh báo: Nếu không ra tay
hành động kịp thời và đủ mức cần thiết, sẽ là quá muộn một khi chủ nghĩa bá quyền,
bành trướng từ "bóng ma" hiện lên thành một thế lực vật chất nguy
hiểm và tàn bạo! Công luận quốc tế và lương tri nhân loại cũng luôn đứng về
phía các dân tộc bị áp bức, các đất nước bị xâm hại bởi các thế lực đen tối,
phi nghĩa. Vì vậy, phải công khai đưa ra quốc tế những vấn đề khúc mắc
trong quan hệ Việt - Trung trước nay vẫn được "những ai đó" coi là
"tế nhị", là "nhạy cảm" và ra sức bưng bít. Trong một số
trường hợp tranh chấp cụ thể về lãnh thổ, lãnh hải, cần phải được đưa ra phân
xử công khai trước các tổ chức quốc tế hữu quan, có đủ năng lực, thẩm quyền
và uy tín. Chúng ta đừng quên một bài học kinh nghiệm vô cùng quý báu: Trong
thời kì chống xâm lược 1945 đến 1975, đặc biệt là từ 1954 về sau, cuộc chiến
đấu chính nghĩa của chúng ta được tiếp thêm nhiều nguồn cổ vũ, ủng hộ
từ dư luận tiến bộ trên thế giới, từ chính phong trào phản chiến trong lòng
đất nước mà nhà cầm quyền nước ấy tiến hành xâm lược Việt Nam. Chúng ta không
thể không nhắc tới sức mạnh mà những tòa án quốc tế xét xử tội ác chiến tranh
chống Việt Nam của Bec-trăng Rut-xel, những cuộc biểu tình phản đối chiến tranh
diễn ra trên khắp các lục địa, từ Âu, Á, Phi, Bắc Mỹ đến Mỹ La-tinh..., đã tiếp
thêm sức mạnh cho chúng ta giữa những năm tháng thử thách khốc liệt, cam go nhất.
Tại sao hôm nay chúng ta lại không tăng cường thêm sức mạnh, khả năng và hiệu
quả tranh đấu cho chính nghĩa của chúng ta bằng cách tranh thủ công luận tiến
bộ và ngay cả sự thức tỉnh trong lòng đất nước đang bị chi phối bới
chủ nghĩa bành trướng..., cũng không phải không có tác dụng chặn bớt các
mưu đồ đen tối và nguy hiểm với chính an nguy của nhân dân nước ấy.
Ba. Riêng với nước ta, từ hàng nghìn năm trước, không chỉ một lần, ông cha ta
đã từng phải đối mặt với những cuộc xâm lược của các đế chế Trung Hoa đầy
tham vọng, hùng mạnh, nham hiểm và tàn ác. Dĩ nhiên tình thế ngày ấy khác bây
giờ cả từ hình thái, quy mô, thủ đoạn xâm lược, bối cảnh quốc tế, trình độ kĩ
thuật, tác chiến, phương tiện chiến tranh và tương quan lực lượng.
Nhưng xét cho cùng vẫn là chuyện nước nhỏ, dân nghèo, quân ít phải đánh với
giặc to, ác và hiểm. Vậy ông cha ta đã làm cách nào để có Bạch Đằng Giang,
Chi Lăng, Vạn Kiếp, Đống Đa? Thậm chí đời Lý, anh hùng Lý Thường Kiệt còn đại
phá Ung - Khâm, đập tan từ trong trứng mưu đồ xâm lược của nhà Tống năm 1075.
Nhà Trần đã tổ chức thành công 3 lần kháng chiến chống Nguyên - Mông thế kỉ
13. Anh hùng dân tộc Lê Lợi, nhà chiến lược, danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi
cùng những nghĩa sĩ dự hội thề Lũng Nhai năm 1418, đã tiến hành cuộc kháng
chiến 10 năm chống quân xâm lược nhà Minh, giải phóng đất nước khỏi họa diệt
vong do bọn xâm lược tàn bạo mưu toan thực hiện bằng tất cả các thủ đoạn và
tội ác của chúng, từ hủy diệt văn hóa, hủy diệt cơ sở vật chất và hủy diệt
khả năng tồn tại của dân tộc ta như một dân tộc có văn hóa và khát vọng hạnh
phúc. Rồi Đại đế Quang Trung đã diệt 28 vạn quân Mãn Thanh chỉ trong vòng mấy
ngày mùa xuân năm Kỉ Dậu - 1789, ngay giữa thành Thăng Long. Vân vân và vân
vân... Tựu trung, nguyên nhân thắng lợi của những võ công trên là do:
A- Ta chính nghĩa, ta chống xâm lược.
B- Ta đoàn kết một lòng, không phân biệt Nam-Bắc, Xuôi-Ngược,
Vua-Quan-Dân, Trai-Gái, Già-Trẻ, Tôn Giáo - Tín Ngưỡng - Chính kiến, tất cả
đồng lòng đánh giặc khi đất nước lâm nguy. (Điển hình là Hội nghị Diên Hồng
thời Trần đánh giặc Nguyên-Mông). Ta kiên quyết giữ vững và phát huy cao
nhất, sức mạnh của khối đại đoàn kết ấy, chống lại mọi mưu toan chia rẽ, mua
chuộc và li gián của giặc ngoại xâm.
C- Ta có truyền thống đấu tranh anh dũng và tự tôn, biết mình (sở đoản - sở
trường), biết người, biết tìm cách đánh thích hợp, lấy "đoản binh thắng
trường trận", "lấy yếu thắng mạnh", lấy " chí nhân thay
cường bạo", biết tiến biết thoái... Mỗi lần phải đương đầu với giặc xâm
lược phương Bắc, bao giờ cha ông ta cũng tìm mọi cách liên kết với các lân bang
cùng cảnh ngộ, cảnh giác ngăn chặn mọi mưu đồ li gián của kẻ thù chính, tỉnh
táo, có tình có lý, phân tích cho các lân bang hiểu rõ những nguy cơ do âm
mưu " bẻ từng chiếc đũa trong bó đũa" gây nên, làm suy yếu khả năng
của các liên minh chống lại bá quyền, bành trướng. Ta cũng biết nội bộ của
chính thế lực xâm lược không phải lúc nào cũng ổn cả, chính nhà cầm quyền ấy cũng
phải đối mặt với những vấn đề nan giải của chính đất nước ấy.
D- Đặc biệt, sức mạnh của Việt Nam được tìm thấy cội rễ từ chí khí, tinh thần
quật cường, trung hậu và đức xả thân..., của giới trẻ trong mọi hoàn
cảnh hiểm nghèo nhất. ( Điển hình là chuyện cậu bé Trần Quốc Toản bóp nát quả
cam ở Hội nghị Bình Than - thời nhà Trần).
E- Ta không mơ hồ trước mọi sự lừa phỉnh, đường mật của kẻ xâm lược. Ta biết
rõ tim đen và dã tâm của chúng. Ta luôn nhũn nhặn, thậm chí chịu lép khi nói
năng, chữ nghĩa viết lách các văn thư của triều đình và phải cống nạp cho cái
gọi là "Thiên Triều" (kể cả khi ta đánh thắng, vẫn tạo điều kiện
giao trả tù binh đàng hoàng cho chính bọn xâm lược mình, hoặc cấp đất xây mộ
phần cho những tên xâm lược chết trận tại Việt Nam), nhưng trong thâm tâm, ta
không bao giờ quên họ là ai, muốn gì và ta phải làm gì để chống lại mọi mưu
toan nham hiểm, tàn bạo đã ăn vào máu của những kẻ cầm quyền phương Bắc. Muốn
làm gì thì làm, muốn mềm dẻo thế nào thì mềm dẻo, nguyên tắc cốt tử là phải bảo
toàn bằng mọi giá, đất đai, sông biển thiêng liêng của tổ tiên trao lại, danh
dự và phẩm giá của một đất nước có truyền thống văn hiến hàng nghìn năm. Đối
sách "trong rắn ngoài mềm" phải được vận dụng và nhận thức trên
nguyên tắc cốt tử, tối thượng như trên.
G- Ta không lạ gì sách của họ từ nghìn xưa đến giờ. Nôm na thế này: Muốn lấy
phải cho (đời Tống, họ phải cắt 800 dặm đất họ cho Liêu Hạ, nhưng lại mưu
toan cướp đất của Đại Việt). Trước Nam sau Bắc ( phía Bắc
của họ toàn thứ dữ, khó gặm, họ bèn tính chuyện lấn xuống phía Nam trước với
hi vọng dễ ăn cướp hơn). Mềm với người xa, rắn với kẻ gần ( mua chuộc, giả vờ
ngọt nhạt, hữu hảo với những nơi xa, gây cảm tình, tạo đà để mưu lợi trong
tương lai khi có cơ hội bành trướng, sắm vai anh hùng hảo hán, cứu khốn phò
nguy, ra vẻ hào hiệp và nhân nghĩa, nhưng trắng trợn, trịch thượng, cậy mạnh
hiếp yếu với những nước nhỏ hơn cạnh mình).
Tôi nghĩ sao nói vậy, giãi bày tâm can cùng các bạn đọc trẻ, chắc có chỗ
thiếu sót, chủ quan hoặc thiển cận, thành thực không ngại bị chê cười hay khó
chịu. Tôi làm việc này chỉ nhằm một mục đích: Tất cả chúng ta hãy cùng nhau
suy nghĩ, nhìn sau trước, thấy phải làm gì tốt nhất, kịp thời và thiết thực
nhất cho đại vận mệnh của đất nước - quê hương này ( đương nhiên, có hạnh
phúc và tương lai của mỗi chúng ta). Khi viết bức thư này, tôi cũng chờ những
điều chẳng muốn vẫn sẽ đến với mình. Kể cả vậy, tôi không hối tiếc khi bày
gan ruột của mình trên giấy. Hơn nữa, nếu tìm được cách thức nào hành động
hướng tới mục đích trên, tốt hơn, hiệu quả hơn, tôi sẽ làm ngay, không nề hà,
tính toán.
Dân Việt Nam xưa nay có cái hay, có cái dở như mọi dân tộc bình thường khác trên
thế giới. Nhưng dân Việt Nam cũng đủ tỉnh táo để phân định rạch ròi
giữa nhân dân Trung Quốc, các giá trị chân chính và đáng trân trọng của văn
hóa Trung Hoa với thiểu số ôm ấp "chủ nghĩa bá quyền, tham vọng bành
trướng". Người Việt Nam chỉ muốn sống yên ổn, no ấm, hòa thuận với láng giềng,
không muốn gây thù chuốc oán, càng không ham tranh giành quyền lợi bất chính.
Nhưng khi bị xâm lược, danh dự bị xúc phạm, toàn dân Việt Nam nhất định mang
hết sức lực, trí tuệ, máu xương, hiến dâng cho Tổ Quốc với tinh thần Đại đế Quang
Trung đã tuyên cáo tại Thăng Long, mùa xuân năm Kỉ Dậu 1789:
"Đánh cho biết nước Nam anh hùng, có chủ!"
Tôi khẩn thiết mong các bạn đọc trẻ hãy đọc bức thư ngỏ này và tất cả chúng
ta, con dân nước Việt hãy đứng bên nhau trong giờ phút đất nước đang bị đe
dọa nghiêm trọng, cùng suy nghĩ và đồng lòng góp sức tìm ra cách tốt nhất,
đối phó một cách hiệu quả nhất cho sự bình an của Tổ Quốc ta. Và ngay khi có
thể, các bạn hãy giúp tôi, đưa bức thư này đến những người thân quen của các
bạn, càng nhanh, càng đông, tôi càng biết ơn các bạn.
Qua mấy lời máu thịt này, tôi xin gửi gắm trọn vẹn lòng tin yêu vào quê hương,
đất nước và nghĩa đồng bào.
Thân quý gửi lời chào các bạn đọc trẻ Việt Nam.
Thân mến
Viết xong lúc 2 giờ 15 ngày 08 tháng 12
năm 2008
Nguyễn Khắc Phục - canhcualieutrai@yahoo.com.vnĐịa chỉ email này đang được
bảo vệ khỏi chương trình thư rác, bạn cần bật Javascript để xem nó - 0904481335
|